Bước tới nội dung

Bưởi Đoan Hùng

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bưởi Đoan Hùng là một giống bưởi nổi tiếng không chỉ ở Phú Thọ, mà còn được biết đến ở nhiều nơi khác. Giống bưởi này mang tên huyện Đoan Hùng, huyện cực Bắc của tỉnh Phú Thọ.

Giống bưởi nối tiếng này đã được bảo hộ tên gọi xuất xứ và được Nhà nước bảo hộ vô thời hạn tại quyết định số 73/QĐ-SHTT. Ngoài ra, bưởi Đoan Hùng cũng là một trong những đặc sản nổi tiếng của tỉnh Phú Thọ.

Đặc điểm, nguồn gốc và xuất xứ

[sửa | sửa mã nguồn]

Đặc điểm

[sửa | sửa mã nguồn]

Bưởi Đoan Hùng có quả hình cầu dẹt, chín màu vàng sáng, cùi mỏng, múi ráo, tôm mọng nước, màu trắng ngà, ăn ngọt mát, mùi thơm đặc trưng.

Hiện nay, bưởi Đoan Hùng được trồng tại xã Đông Khê, Bằng Luân, Nghinh Xuyên, Hùng Quan, Quế Lâm, Phương Trung, Minh Lương, Vân Du, Chí Đám, Tây Cốc, Phong Phú, Bằng Doãn, Hữu Đô, Phúc Lai, Ngọc Quan, Ca Đình thuộc huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam.

Bưởi Đoan Hùng là giống bưởi cổ nhất. Truyền qua nhiều đời, và cây tổ hiện nay có tuổi đời hơn 100 năm, to lớn như cây cổ thụ và được dùng để chiết cành nhân giống các thế hệ bưởi tiếp theo. Đây phải là loại cây trồng lâu năm, có quả hình cầu dẹt, quả chưa đầy 1 kg, chín màu vàng sáng, vỏ hơi héo, cùi mỏng, múi ráo, tôm mọng nước, màu trắng ngà, đặc trưng bởi hương vị thơm, ngon, ngọt, mát. Giống bưởi này đặc biệt ở chỗ có thể bảo quản được vài tháng đến nửa năm, khi bổ ra, ăn vẫn ngọt, ngon.

Phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]
Bưởi Bằng Luân.

Bưởi Đoan Hùng được phân ra làm 2 giống bưởi, đó là bưởi Bằng Luânbưởi Sửu Chí Đám.

Bưởi Bằng Luân có cách đây 200 đến 300 năm, là giống có nhiều nhất ở Đoan Hùng, trồng chủ yếu ở xã Bằng LuânQuế Lâm. Chất lượng bưởi ở cả hai xã đều đồng đều. Bưởi Bằng Luân có dạng lá nhỏ, quả nhỏ có hình cầu dẹt hoặc dạng hình lá to, quả to, tròn đều. Khi chín có màu vàng rơm, màu thịt quả trắng, trục quả đặc, dễ tách múi, tép mềm mọng nước có màu trắng xanh, ngọt đậm, vị thơm.

Bưởi Sửu Chí Đám phát triển phù hợp trên đất phù sa sông Lô, sông Chảy. Giống bưởi này được nhân dân xã Chí Đám nhân ra từ cây bưởi ngon của nhà lão nông có tên là Sửu cách đây trên 200 năm. Từ đó, tên ông được đặt cho giống bưởi này. Bưởi Sửu sau 5 năm trồng cho quả có chất lượng tốt, cây 15 tuổi có năng suất từ 100 – 150 quả, bảo quản sau 5 – 6 tháng vẫn giữ được chất lượng tốt.

Nguồn gốc, xuất xứ

[sửa | sửa mã nguồn]

Dưới thời kỳ phong kiến, chỉ có tầng lớp vua chúa mới được ăn bưởi Đoan Hùng. Vì thế mà loại quả này được mệnh danh là “bưởi tiến vua”.

Trong chiến dịch Thu Đông năm 1947 bưởi Đoan Hùng cũng đi vào lịch sử khi được quân dân ta bôi đen giả làm thủy lôi rồi thả xuống sông Lô (bên phía Hữu Đô), tàu địch tránh sang phía Chí Đám vào thế trận mai phục của quân ta.

Bưởi Đoan Hùng xưa còn có tên gọi khác là “bưởi Phủ Đoan”. Ngoài ra, khi đến Đoan Hùng, bạn sẽ được biết đến một số giống bưởi như bưởi Bằng Luân, quả to, dáng đẹp, vỏ vàng xanh. Bưởi Pomelo (lai Mỹ) quả to, dáng thô, tôm nát, vị chua, không dóc vỏ. Bưởi Lã Hoàng tròn dẹt, hình bánh xe ăn mát ngon... Và cuối cùng là bưởi Sửu Chí Đám, quả vừa, xinh xắn, vỏ vàng rộm, da hơi nhăn.

Cách trồng bưởi Đoan Hùng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chọn giống

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay từ khi trồng, chỉ chọn 2 giống đặc sản là giống bưởi Sửu (Chí Đám) và bưởi Bằng Luân với các tiêu chuẩn: cây giống xuất vườn phải sạch sâu, bệnh, được sản xuất theo phương pháp ghép hoặc lấy trực tiếp từ các cây bưởi Sửu (Chí Đám) hoặc bưởi Bằng Luân đã được tuyển chọn và công nhận. Không nên sử dụng giống bưởi được sản xuất trong dân, không rõ nguồn gốc. Cây giống xuất vườn phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn quy định. Tuy nhiên cần lưu ý xen giống để thụ phấn chéo như đã nói

Làm đất

[sửa | sửa mã nguồn]

Đất bằng và đất có độ dốc dưới 4 độ, thiết kế trồng theo băng, theo hàng; nên bố trí trồng nanh sấu. Đất thấp dễ bị úng cần thiết kế hệ thống mương thoát nước đảm bảo tiêu úng kịp thời. Đất đồi thường bị hạn thiết kế trồng theo đường đồng mức, có rãnh giữ nước. Làm đất, đào hố trồng phải làm sớm, phơi đất 20 - 25 ngày, sau đó bón phân lót, lấp hố thước trồng 25-30 ngày để hạn chế nguồn sâu, bệnh hại. Bón đầy đủ phân hữu cơ, vôi bột, NPK cho từng hố trồng.

Mật độ trồng

[sửa | sửa mã nguồn]

Nên trồng với mật độ 280 - 330 cây/ha để đảm bảo đủ ánh sáng cho cây phát triển, ra lộc đều, hạn chế sâu bệnh.

Tưới nước và giữ ẩm

[sửa | sửa mã nguồn]

Đối với cây mới trồng cần tưới nước đảm bảo giữ ẩm đất thường xuyên. Đối với vườn bưởi kinh doanh có thể tưới vào các tháng 11, 12 và tháng 01 hàng năm. Khi tưới cần tưới ướt đẫm từ gốc đến xung quanh vồng tán; trong suốt cả năm, cần áp dụng các biện pháp giữ ẩm như tủ đất bằng rơm rạ (nhưng cách gốc 0,3 - 0,5 mét) hoặc trồng cây cỏ có hoa để che phủ đất. Vườn cây phải được thoát nước tốt, không ngập úng hoặc đọng nước sẽ tạo điều kiện cho nấm bệnh phát triển và gây hại.

Bón phân

[sửa | sửa mã nguồn]

Đối với vườn bưởi kinh doanh: lượng bón phân chuồng: 15 tấn/ha; Vôi bột: 300 kg/ha; Đạm Urê: 250 kg/ha; Supe lân 450 kg/ha; Kali: 300 kg/ha. Thời gian bón: Tháng 10 - 12, bón cơ bản (sau thu hoạch) gồm 100% hữu cơ + lân + vôi bột; tháng 2, bón thúc cành xuân và đón hoa gồm 60% Urê + 40% Kali; tháng 6 - 7, bón thúc cành thu và tăng trọng quả gồm 40% Urê + 60% Kali. Cách bón: Phân hữu cơ, lân, vôi bột: Đào rãnh quanh vòng tán, rộng 20 – 40 cm, sâu 25 – 40 cm. Trộn đều phân với đất bón vào rãnh sau đó lấp lại và tưới đẫm n­ước; Đạm và Kali  rắc quanh tán, xăm nhẹ, tư­ới đẫm nư­ớc, tránh đứt  rễ.

Các biện pháp sinh học cơ giới, vật lý để chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Các biện pháp bao gồm: chiết suất ký sinh phun trở lại vườn bưởi; nuôi thả kiến vàng; trồng và để cỏ có hoa trong vườn; cắt tỉa tạo tán; thường xuyên phát hiện, đào bỏ những cây bị bệnh, dùng vợt hoặc bắt giết bằng tay những loài sâu hại có kích thước lớn.

Sử dụng thuốc hóa học phòng trừ sâu bệnh

[sửa | sửa mã nguồn]

a. Đối với sâu vẽ bùa: Sử dụng Dầu khoáng DC-Tron plus 98.8 EC pha ở nồng độ 0,7% phun 800 lít/ha (30 lít/sào) khi lộc xuân ra đều hoặc Polytrin 400 EC pha ở nồng độ 0,1%,  phun  800 lít/ha (30 lít/sào) khi có trên 10% lá hại để phòng trừ.

b. Nhện đỏ, rệp sáp: Sử dụng Dầu khoáng DC-Tron plus 98.8 EC pha ở nồng độ 0,7% phun 800 lít/ha (30 lít/sào) khi có trên 10% lá hại để phòng trừ.

c. Sâu đục thân, đục cành: Nếu phát hiện có lỗ sâu thì dùng Ofatox... pha loãng, bơm hoặc tẩm bông nhét vào lỗ sâu, sau đó dùng đất dẻo bịt lại.

d. Sâu xanh bướm phượng: Dùng thuốc sinh học V-BT hoặc nước chiết xuất nấm ký sinh từ các cá thể bị ký sinh phun trở lại vườn.

e. Bệnh chảy gôm: Cắt bỏ những cành bị bệnh nặng, cạo sạch vỏ xung quanh vết bệnh, dùng Aliette 80WP pha 3g/01lít hoặc Ridomil MZ 72 WP pha 30g/01lít quét đẫm lên vết bệnh khi bệnh mới xuất hiện.

f. Rầy chổng cánh: Dùng dầu khoáng DC-Tron plus 98.8 EC phun vào lúc cây chớm ra lộc với nồng độ 70 ml dầu trong 10 lít nước, bắt đầu phun khi búp lộc đầu tiên hé mở, sau đó phun 5 - 14 ngày /1lần cho đến khi đa số lộc đạt chiều dài 10 mm.

Thu hoạch và bảo quản

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi trái bưởi chín vàng, quả căng tròn, mọng nước dùng kéo sắc cắt sát cuống quả, sau đó bôi vôi vào cuống quả, phân loại quả. Để bưởi nơi kín gió, khô ráo có thể bảo quản được từ 3 – 4 tháng. Tuy vỏ quả héo nhăn nheo nhưng tôm bưởi vẫn căng mọng nước, không gạo, không nát, độ ngọt và mùi càng đậm đà. Nếu gốc bưởi đã già (trên 40 năm tuổi) thời gian để lên đến 6 tháng mà không bị khô.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]