Joshua King (cầu thủ bóng đá)
J. King trong màu áo Bournemouth năm 2015 | |||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Joshua Christian Kojo King | ||||||||||||||||
Ngày sinh | 15 tháng 1, 1992 | ||||||||||||||||
Nơi sinh | Oslo, Na Uy | ||||||||||||||||
Chiều cao | 1,80 m (5 ft 11 in)[1] | ||||||||||||||||
Vị trí | Tiền đạo | ||||||||||||||||
Thông tin đội | |||||||||||||||||
Đội hiện nay | Watford | ||||||||||||||||
Số áo | 7 | ||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||||||||||||||||
Năm | Đội | ||||||||||||||||
1998–2006 | Romsås | ||||||||||||||||
2006–2008 | Vålerenga | ||||||||||||||||
2008–2010 | Manchester United | ||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||
2009–2013 | Manchester United | 0 | (0) | ||||||||||||||
2010 | → Preston North End (mượn) | 8 | (0) | ||||||||||||||
2011 | → Borussia Mönchengladbach (mượn) | 2 | (0) | ||||||||||||||
2011 | → Borussia Mönchengladbach II (mượn) | 4 | (2) | ||||||||||||||
2012 | → Hull City (mượn) | 18 | (1) | ||||||||||||||
2012 | → Blackburn Rovers (mượn) | 8 | (2) | ||||||||||||||
2013–2015 | Blackburn Rovers | 56 | (3) | ||||||||||||||
2015–2021 | AFC Bournemouth | 173 | (48) | ||||||||||||||
2021 | Everton | 11 | (0) | ||||||||||||||
2021– | Watford | 11 | (5) | ||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||
2007 | U-15 Na Uy | 4 | (2) | ||||||||||||||
2008 | U-16 Na Uy | 3 | (1) | ||||||||||||||
2009 | U-18 Na Uy | 2 | (2) | ||||||||||||||
2010 | U-19 Na Uy | 2 | (1) | ||||||||||||||
2011–2013 | U-21 Na Uy | 8 | (1) | ||||||||||||||
2012– | Na Uy | 62 | (20) | ||||||||||||||
Thành tích huy chương
| |||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến ngày 28 tháng 11 năm 2021 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến ngày 9 tháng 6 năm 2022 |
Joshua Christian Kojo King (sinh ngày 15 tháng 1 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Na Uy hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Watford và đội tuyển quốc gia Na Uy.
Joshua King gia nhập Manchester United từ câu lạc bộ Vålerenga vào năm 2008. Sau được cho mượn tại Preston North End, Borussia Mönchengladbach, Hull City và Blackburn Rovers, anh được Blackburn mua đứt vào tháng 1 năm 2013. Tháng 5 năm 2015, tiền đạo người Na Uy được Bournemouth chiêu mộ sau khi câu lạc bộ này giành quyền thăng hạng Premier League.
Sau khi thi đấu cho U-15, U-16, U-18, U-19 và U-21 Na Uy, King có lần đầu tiên ra sân cho đội tuyển quốc gia Na Uy trong trận gặp Iceland vào năm 2012. Cuối năm đó, anh có bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển khi ghi bàn vào lưới Đảo Síp.
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Sinh ra ở Oslo, có cha là người Gambia và mẹ là người Na Uy, Joshua King lớn lên ở vùng ngoại ô Romsås.[2] Anh bắt đầu sự nghiệp bóng đá ở câu lạc bộ địa phương Romsås IL, trước khi chuyển sang Vålerenga ở tuổi 15. Khi còn ở Vålerenga, King đã được thử việc tại Manchester United nhiều lần, nhưng các quy định của UEFA đã ngăn anh ký hợp đồng với câu lạc bộ cho đến khi anh đủ 16 tuổi. Anh cũng đã nhận được những lời đề nghị thử việc từ Chelsea, Sunderland và Ipswich Town, nhưng đã từ chối để gia nhập Manchester United.
Sự nghiệp câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]AFC Bournemouth
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 28 tháng 5 năm 2015, sau khi từ chối gia hạn hợp đồng với Blackburn, King chuyển sang Bournemouth trước thềm mùa giải đầu tiên của họ tại Premier League. Anh có trận ra mắt câu lạc bộ mới vào ngày 8 tháng 8 khi đội bóng này khởi đầu mùa giải với thất bại 0–1 trên sân nhà trước Aston Villa. Bàn thắng đầu tiên của King cho "The Cherry" đến vào ngày 21 tháng 11, khi anh mở tỷ số trong trận hòa 2–2 với Swansea City.
Ngày 12 tháng 12, Joshua King đã ghi bàn thắng từ một pha đá phạt góc khi Bournemouth đánh bại Manchester United 2–1 tại Dean Court.[3] Anh đã ăn mừng bàn thắng nhiệt tình trước câu lạc bộ cũ của mình, và sau đó anh tiết lộ với tờ Daily Mail rằng huấn luyện viên Alex Ferguson đã không nói chuyện với anh hay bất kỳ cầu thủ trẻ nào khác vào thời điểm King còn thuộc biên chế đội bóng thành Manchester. King kết thúc mùa giải 2015–16 với tư cách là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của Bournemouth, ghi được 7 bàn trên mọi đấu trường, trong đó có 6 bàn tại Premier League.
Từ cuối tháng 2 đến tháng 3 năm 2017, King đã ghi được 5 bàn thắng trong 3 trận đấu ở Premier League, bao gồm cả bàn thắng gỡ hòa khi trở lại sân Old Trafford và kết thúc bằng một cú hat-trick trong chiến thắng 3–2 trên sân nhà trước West Ham mặc dù anh đã đá hỏng một quả phạt đền ở hiệp 1. Qua đó, King trở thành cầu thủ người Na Uy thứ 6 ghi 3 bàn trong một trận đấu ở Premier League.[4]
Ngày 29 tháng 8 năm 2017, King gia hạn hợp đồng thêm 4 năm với Bournemouth.[5]
Everton
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 1 tháng 2 năm 2021, ngày cuối cùng của kỳ chuyển nhượng mùa đông, câu lạc bộ Everton thông báo rằng họ đã chiêu mộ King từ Bournemouth với bản hợp đồng cho đến cuối mùa giải với một tùy chọn để gia hạn hợp đồng.
Watford
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 9 tháng 7 năm 2021, King gia nhập đội bóng mới thăng hạng Premier League là Watford theo dạng chuyển nhượng tự do, hợp đồng có thời hạn hai năm.
Sự nghiệp quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi thi đấu cho các đội tuyển bóng đá trẻ của Na Uy, Egil Olsen đã triệu tập King vào đội tuyển quốc gia Na Uy cho hai trận vòng loại World Cup vào tháng 9 năm 2012. Anh ra mắt đội tuyển trong trận gặp Iceland vào ngày 7 tháng 9 năm 2012, khi vào sân thay thế Mohammed Abdellaoue ở phút 65. King đưa được bóng vào lưới 8 phút sau đó, nhưng bàn thắng không được công nhận. Bốn ngày sau trong trận đấu tiếp theo của Na Uy, anh vào sân thay Abdellaoue ngay trong hiệp một trận đấu với Slovenia. King vào sân thay cho Alexander Søderlund trong hiệp một trận đấu với Đảo Síp ở Larnaca vào ngày 16 tháng 10 năm 2012, sau đó anh kiếm được một quả phạt đền và tự thực hiện thành công ấn định chiến thắng 3–1 cho Na Uy.
Bàn thắng thứ 2 của King trong màu áo đội tuyển quốc gia cũng được ghi vào lưới Đảo Síp vào ngày 6 tháng 9 năm 2013. Ngày 10 tháng 10 năm 2014, anh đã lập cú đúp vào lưới Malta trong chiến thắng 3–0 trên sân khách tại vòng loại Euro 2016, nhưng HLV Per-Mathias Høgmo không triệu tập anh trong trận play-off với Hungary.
Thống kê sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải quốc nội | Cúp quốc gia[a] | Cúp liên đàn[b] | Cúp châu Âu | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Manchester United | 2009–10 | Premier League | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 |
2010–11 | Premier League | 0 | 0 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 0 | 0 | ||
2011–12 | Premier League | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | ||
2012–13 | Premier League | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 1[c] | 0 | 1 | 0 | ||
Tổng cộng | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 1 | 0 | 2 | 0 | ||
Preston North End (mượn) | 2010–11 | Championship | 8 | 0 | — | 2 | 1 | — | 10 | 1 | ||
Borussia Mönchengladbach (mượn) | 2011–12 | Bundesliga | 2 | 0 | 0 | 0 | — | — | 2 | 0 | ||
Borussia Mönchengladbach II (mượn) | 2011–12 | Regionalliga | 4 | 2 | — | — | — | 4 | 2 | |||
Hull City (mượn) | 2011–12 | Championship | 18 | 1 | 1 | 0 | — | — | 19 | 1 | ||
Blackburn Rovers (mượn) | 2012–13 | Championship | 8 | 2 | 0 | 0 | — | — | 8 | 2 | ||
Blackburn Rovers | 2012–13 | Championship | 8 | 0 | 4 | 0 | — | — | 12 | 0 | ||
2013–14 | Championship | 32 | 2 | 2 | 0 | 1 | 0 | — | 35 | 2 | ||
2014–15 | Championship | 16 | 1 | 2 | 3 | 1 | 0 | — | 19 | 4 | ||
Tổng cộng | 64 | 5 | 8 | 3 | 2 | 0 | — | 74 | 8 | |||
Bournemouth | 2015–16 | Premier League | 31 | 6 | 2 | 1 | 2 | 0 | — | 35 | 7 | |
2016–17 | Premier League | 36 | 16 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | 36 | 16 | ||
2017–18 | Premier League | 33 | 8 | 0 | 0 | 1 | 1 | — | 34 | 9 | ||
2018–19 | Premier League | 35 | 12 | 0 | 0 | 3 | 0 | — | 38 | 12 | ||
2019–20 | Premier League | 26 | 6 | 0 | 0 | 1 | 0 | — | 27 | 6 | ||
2020–21 | Championship | 12 | 0 | 2 | 3 | 0 | 0 | — | 14 | 3 | ||
Tổng cộng | 173 | 48 | 4 | 4 | 7 | 1 | — | 184 | 53 | |||
Everton | 2020–21 | Premier League | 11 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | 11 | 0 | |
Tổng cộng | 11 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | 11 | 0 | |||
Tổng sự nghiệp | 280 | 56 | 13 | 7 | 12 | 2 | 1 | 0 | 306 | 65 |
Quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến ngày 9 tháng 6 năm 2022[8]
Na Uy | ||
---|---|---|
Năm | Số trận | Bàn thắng |
2012 | 4 | 1 |
2013 | 5 | 1 |
2014 | 6 | 2 |
2015 | 4 | 0 |
2016 | 8 | 3 |
2017 | 4 | 3 |
2018 | 6 | 2 |
2019 | 9 | 5 |
2020 | 5 | 0 |
2021 | 7 | 0 |
2022 | 4 | 3 |
Tổng cộng | 62 | 20 |
Bàn thắng quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 16 tháng 10 năm 2012 | Sân vận động Antonis Papadopoulos, Larnaca, Síp | Síp | 3–1 | 3–1 | Vòng loại World Cup 2014 |
2. | 6 tháng 9 năm 2013 | Sân vận động Ullevaal, Oslo, Na Uy | Síp | 2–0 | 2–0 | |
3. | 10 tháng 10 năm 2014 | Sân vận động Quốc gia Ta' Qali, Mdina, Malta | Malta | 2–0 | 3–0 | Vòng loại Euro 2016 |
4. | 3–0 | |||||
5. | 05 tháng 6 năm 2016 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Bruxelles, Bỉ | Bỉ | 1–1 | 2–3 | Giao hữu |
6. | 11 tháng 10 năm 2016 | Sân vận động Ullevaal, Oslo, Na Uy | San Marino | 4–1 | 4–1 | Vòng loại World Cup 2018 |
7. | 11 tháng 11 năm 2016 | Eden Arena - Praha, Cộng hòa Séc | Cộng hòa Séc | 1–2 | 1–2 | |
8. | 01 tháng 9 năm 2017 | Sân vận động Ullevaal, Oslo, Na Uy | Azerbaijan | 1–0 | 2–0 | |
9. | 05 tháng 10 năm 2017 | Sân vận động San Marino, Serravalle, San Marino | San Marino | 2–0 | 8–0 | |
10. | 3–0 | |||||
11. | 02 tháng 6 năm 2018 | Laugardalsvöllur, Reykjavík, Iceland | Iceland | 2–2 | 3–2 | Giao hữu |
12. | 06 tháng 6 năm 2018 | Sân vận động Ullevaal, Oslo, Na Uy | Panama | 1–0 | 1–0 | |
13. | 23 tháng 3 năm 2019 | Sân vận động Mestalla, Valencia, Tây Ban Nha | Tây Ban Nha | 1–1 | 1–2 | Vòng loại Euro 2020 |
14. | 26 tháng 3 năm 2019 | Sân vận động Ullevaal, Oslo, Na Uy | Thụy Điển | 2–0 | 3–3 | |
15. | 05 tháng 9 năm 2019 | Malta | 2–0 | 2–0 | ||
16. | 12 tháng 10 năm 2019 | Tây Ban Nha | 1–1 | 1–1 | ||
17. | 18 tháng 11 năm 2019 | Sân vận động Quốc gia, Ta' Qali, Malta | Malta | 1–0 | 2–1 | |
18. | 29 tháng 3 năm 2022 | Sân vận động Ullevaal, Oslo, Na Uy | Armenia | 2–0 | 9–0 | Giao hữu |
19 | 4–0 | |||||
20 | 6–0 |
Thành tích
[sửa | sửa mã nguồn]Quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]- U-21 Na Uy
- Hạng ba Giải bóng đá U-21 Châu Âu: 2013
Cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Joshua King: Overview”. Premier League. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2018.
- ^ “King om tatoveringen: – Til ære for henne som har oppdratt meg” [King on the tattoo: – In honour of she who raised me] (bằng tiếng Na Uy). TV 2. ngày 15 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2014.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ Henson, Mike (ngày 12 tháng 12 năm 2015). “Bournemouth 2–1 Man Utd”. BBC Sport. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2015.
- ^ Rose, Gary (ngày 11 tháng 3 năm 2017). “AFC Bournemouth 3–2 West Ham United”. BBC Sport. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2017.
- ^ “AFCB – Joshua King signs new four-year deal”.
- ^ “Josh King”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2017.
- ^ “Joshua King”. Altomfotball. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2017.
- ^ “Joshua King”. National Football Teams. Benjamin Strack-Zimmerman. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2021.
- ^ “King fikk Gullballen: - Fullt fortjent” [King won the Golden Ball: - Fully deserved]. vg.no (bằng tiếng Na Uy). Verdens Gang. ngày 6 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Thông tin tại afcb.co.uk
- Joshua King tại Soccerbase
- Sinh năm 1992
- Nhân vật còn sống
- Tiền đạo bóng đá nam
- Cầu thủ bóng đá Na Uy
- Cầu thủ bóng đá nam Na Uy ở nước ngoài
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
- Cầu thủ bóng đá Manchester United F.C.
- Cầu thủ bóng đá Preston North End F.C.
- Cầu thủ bóng đá Hull City A.F.C.
- Cầu thủ bóng đá Blackburn Rovers F.C.
- Cầu thủ bóng đá A.F.C. Bournemouth
- Cầu thủ bóng đá Everton F.C.
- Cầu thủ bóng đá Premier League
- Cầu thủ bóng đá Bundesliga
- Cầu thủ bóng đá Borussia Mönchengladbach